In sinh học 3D là một nền tảng sản xuất tiên tiến có thể được sử dụng để in mô từ tế bào và cuối cùng là các cơ quan quan trọng. Điều này có thể mở ra thế giới mới trong y học đồng thời mang lại lợi ích trực tiếp cho những bệnh nhân cần thay thế nội tạng.
Thay vì chờ đợi người hiến tặng phù hợp hoặc mạo hiểm để cơ thể đào thải nội tạng được cấy ghép, bệnh nhân có một nội tạng tùy chỉnh được chế tạo riêng để thay thế nội tạng bị lỗi. Tuy nhiên, ngay cả với những tiến bộ trong công nghệ in sinh học 3D trong 20 năm qua, công nghệ này vẫn chưa có nhiều tiến bộ đáng kể để tạo ra các cấu trúc mô phỏng sinh học 3D phức tạp.
Theo các nhà nghiên cứu tại Đại học Công nghệ và Thiết kế Singapore (SUTD), Đại học Công nghệ Nanyang (NTU) và Đại học Châu Á, công nghệ nuôi cấy mô nói riêng cần được đẩy nhanh để giải quyết tình trạng tắc nghẽn trong việc đưa các cấu trúc mô 3D đa bào được in sinh học vào mô chức năng. Bài báo nghiên cứu của họ có tựa đề “In cho tôi một cơ quan! Tại sao chúng ta vẫn chưa xuất hiện?” đã được công bố trên tạp chí Advances in Polymer Science.
Trong bài báo này, các nhà nghiên cứu cũng cung cấp một đánh giá chuyên sâu về những cải tiến gần đây và phân tích các công nghệ in sinh học. Tiến trình phát triển mực sinh học, triển khai các chiến lược in sinh học mới và trưởng thành mô cũng sẽ được phân tích. Sự chú ý đặc biệt cũng được dành cho vai trò của khoa học polyme và cách nó bổ sung cho in sinh học 3D để vượt qua một số rào cản lớn trong lĩnh vực in nội tạng, chẳng hạn như cho phép mô phỏng sinh học, hình thành mạch máu và các cấu trúc sinh học liên quan đến giải phẫu 3D (như hình ảnh bên dưới hiển thị).
Việc sử dụng các chiến lược bổ sung, chẳng hạn như hệ thống tưới máu đồng nuôi cấy động, được coi là thiết yếu để đảm bảo sự trưởng thành và lắp ráp các cấu trúc mô được in sinh học. Mặc dù hiện nay có thể sản xuất các mô hoặc cơ quan ở quy mô người có thể trưởng thành thành các mô có mạch máu và có chức năng một phần, ngành công nghiệp này vẫn tụt hậu trong việc in sinh học các mô hoặc cơ quan dành riêng cho người do sự phức tạp của ma trận ngoại bào (ECM) dành riêng cho mô và quá trình trưởng thành của mô - thiếu môi trường đồng nuôi cấy phù hợp để hỗ trợ nhiều loại tế bào và đòi hỏi phải xử lý mô thêm trước khi ghép.
“Mặc dù công nghệ in sinh học 3D vẫn đang trong giai đoạn đầu, nhưng những bước tiến đáng kể mà công nghệ này đạt được trong những năm gần đây cho thấy thực tế cuối cùng của các cơ quan chức năng được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, để mở rộng ranh giới của y học, chúng ta phải vượt qua những thách thức về mặt kỹ thuật trong việc chế tạo mô. Các loại mực sinh học cụ thể không Tối ưu hóa quá trình trưởng thành của mô. Điều này cuối cùng sẽ có tác động rất lớn đến cuộc sống của bệnh nhân, nhiều người trong số họ có thể phụ thuộc vào tương lai của công nghệ in sinh học 3D”, Giáo sư Chua Chee Kai, tác giả chính của bài báo cho biết.
Phụ gia JSDịch vụ in 3D của chúng tôi cũng liên tục phát triển và tiến bộ, đạt đến trình độ tiên tiến hơn trong ngành y tế để đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân lớn và nghiên cứu khoa học. Các mô hình y tế in 3D và sản phẩm hoàn thiện của chúng tôi cũng được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng ở nước ngoài. Hoan nghênh và sử dụng.